Lạm phát là gì

Kinh tế - Tài chính - Đầu tư

Lạm phát, học trong kinh tế vĩ mô (Tiếng Anh: inflation) là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây. Lạm phát luôn thu hút sự quan tâm lớn nhất của dư luận xã hội, bởi đây là vấn đề kinh tế mà các nước đều phải đối mặt.

I. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng tới lạm phát

Bạn hãy tạm coi tiền tệ như một món hàng trao đổi thời còn hàng đổi hàng. Món hàng nào có giá thì món đó sẽ đổi được nhiều hơn món hàng khác. Đô la Mỹ (USD) là đồng tiền có giá, bạn có thể dùng nó để mua hàng hóa ở bất kỳ đâu vì nó là đồng tiền có giá trị, được bảo chứng toàn cầu.

Còn một quốc gia sản xuất yếu kém, hàng hóa khan hiếm thì giá cả hàng hóa tăng. Giá tăng thì phải bỏ nhiều tiền hơn mua hàng hóa. Mà khi tiền mang đi quá nhiều bất tiện, nhà nước sẽ in các tờ tiền mệnh giá lớn để hỗ trợ lưu thông hàng hóa gọn gàng hơn. Khi đó lạm phát bắt đầu xảy ra. Có rất nhiều nguyên nhân xảy ra, tuy nhiên do "cầu kéo" và "chi phí đẩy" được coi là 2 nguyên nhân chính.

 

Biểu đồ lạm phát các năm về trước (Wikipedia)

1.  Lạm phát do cầu kéo
Khi nhu cầu thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ khiến giá cả của mặt hàng đó tăng theo. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát tăng lên do nhu cầu tiêu dùng tăng lên được gọi là “lạm phát do cầu kéo”. Ở các nước và kể cả Việt Nam, giá xăng tăng lên kéo theo giá cước taxi tăng lên, giá thịt lợn tăng, giá nông sản tăng.... là một ví dụ điển hình.

2. Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế tăng lên được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.

3. Lạm phát do cơ cấu
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.

4. Lạm phát do cầu thay đổi
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.

5. Lạm phát do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.

6. Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.

7. Lạm phát tiền tệ
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Loại lạm phát này là nguyên nhân khiến thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như thế giới năm 2020-2022 tăng trưởng thần kỳ.

 

II. Siêu lạm phát

Hiện tượng này ở Việt Nam thì hiếm, có thể nói là chưa xảy ra, tuy nhiên cũng cần phải tìm hiểu để nắm bắt. Siêu lạm phát là tình trạng lạm phát cao, có tác động phá hoại nền kinh tế nghiêm trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số hàng năm thì gọi là siêu lạm phát. Khi có siêu lạm phát, tiền mất giá nghiêm trọng, và lượng cầu về tiền tệ giảm đi đáng kể. Không có định nghĩa thống nhất về siêu lạm phát. Có người cho rằng mức lạm phát trên 1.000% là siêu lạm phát, trên 100% đến dưới 1.000% là lạm phát phi mã, từ 10% đến dưới 100% là lạm phát cao.

Hiện có nhiều giả thuyết về nguyên nhân dẫn đến siêu lạm phát. Nhưng gần như tất cả các siêu lạm phát đã được gây ra bởi thâm hụt ngân sách chính phủ, nên buộc chính phủ phải in thêm rất nhiều tiền. Sau khi phân tích 29 siêu lạm phát (theo định nghĩa của Cagan) thì Bernholz đã kết luận rằng ít nhất 25 trong số đó đã xảy ra theo cách này. Bên cạnh đó, một điều kiện cần thiết cho siêu lạm phát là sự tồn tại của các loại tiền tệ không chuyển đổi cố định vào vàng và bạc.

Đồng tiền kim loại thường là nạn nhân của siêu lạm phát, do kinh phí để đúc tiền vượt quá giá trị lưu thông của nó. Một số lượng lớn tiền đúc đã bị nấu chảy, thường là bất hợp pháp, sau đó đi xuất khẩu cho các ngoại tệ mạnh.

 

Siêu lạm phát

Lạm phát tại Hungary là ví dụ tiêu biểu về lạm phát. Sau Thế chiến II, tỉ lệ lạm phát hàng tháng ở Hungary chạm mức cao nhất trong lịch sử thế giới - 41.900.000.000.000.000% (4.19 × 1016% hoặc 41,9 triệu tỷ %) vào tháng 7 năm 1946. Với tỉ lệ này, giá cả ở Hungary sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 15,3 giờ. Nếu so sánh, tỉ lệ lạm phát hàng năm ở Zimbabwe là 89.7 nghìn tỷ tỷ % (số liệu tính đến ngày 14 tháng 11 năm 2008)[8], tức là giá cả sẽ nhân đôi sau mỗi 24,7 giờ. Khi viết ra giấy, con số này là 89.700.000.000.000.000.000.000%.

III. Lạm phát ở Việt Nam

Lạm phát Việt Nam hiện nay

Trong 7 tháng năm 2023, giá hàng hóa trên thị trường quốc tế có nhiều biến động và chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố kinh tế, chính trị, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và xung đột quân sự Nga – Ucraina, chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến sụt giảm nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước và tăng trưởng chậm lại, lạm phát tuy có xu hướng giảm những vẫn ở mức cao. Các nhân tố địa chính trị, kinh tế tạo sức ép khác nhau lên giá dầu trong 7 tháng năm 2023 như: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các nước đồng minh (OPEC+) sau họp ngày 02/4/2023 tiếp tục giảm sản lượng khai thác dầu tương đương hơn 3,7% nhu cầu thế giới; lệnh cấm nhập khẩu của Liên minh châu Âu đối với sản phẩm dầu và các nhiên liệu tinh chế của Nga; tâm lý lo ngại lạm phát và chính sách thắt chặt tiền tệ ảnh hưởng tới sự phục hồi kinh tế toàn cầu, Trung Quốc gỡ bỏ hầu hết các hạn chế xuất nhập cảnh, tăng đầu tư công và triển vọng tiêu thụ dầu tại Trung Quốc tăng.

Trong nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các Bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn; giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; thúc đẩy giải ngân đầu tư công; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, sớm ổn định lại và hỗ trợ phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản, bảo đảm an sinh xã hội. Theo đó, thị trường các mặt hàng thiết yếu không có biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm, giá hàng hóa tăng giảm đan xen.

Tình hình lạm phát thế giới trong những tháng đầu năm 2023 tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Lạm phát của khu vực đồng Euro tháng 6/2023 tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Anh tăng 7,9%; Đức và I-ta-li-a cùng tăng 6,4%; Pháp tăng 4,5%. Lạm phát của Mỹ tháng 6/2023 tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, FED tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ. Tại Châu Á, lạm phát tháng 6/2023 của Thái Lan tăng 0,23%; Hàn Quốc tăng 2,7%; In-đô-nê-xi-a tăng 3,52%; Phi-lip-pin tăng 5,4%; Lào tăng 28,64%. So với các quốc gia, Việt Nam không thuộc nhóm nước có mức lạm phát cao khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2023 tăng 2,06% so với cùng kỳ năm trước.

Biểu đồ lạm phát 7 tháng đầu năm

CPI bình quân 7 tháng năm 2023 chỉ tăng 3,12% so với cùng kỳ năm 2022; lạm phát cơ bản tăng 4,65% so với cùng kỳ năm trước, đều giảm so với các mức tương ứng là 3,29% và 4,74% của 6 tháng đầu năm 2023. Mặc dù vậy, CPI tháng 7 tăng 0,45% so với tháng trước; tăng 1,13% so với tháng 12/2022 và tăng 2,06% so với cùng kỳ năm trước.

Tốc độ tăng CPI bình quân các tháng có xu hướng giảm dần, là dấu hiệu tích cực cho thấy CPI bình quân năm 2023 đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát khoảng 4,5%.

Chủ đề này là một nội dung rất khó trong kinh tế vĩ mô. Trong quá trình tư vấn cũng như theo dõi thị trường, yếu tố nào tác động tích cực hoặc tiêu cực, chúng tôi sẽ sớm thông báo cho NĐT. 

Chúc các độc giả của TỰ CHƠI CHỨNG KHOÁN có thêm nhiều kiến thức về chứng khoán.

(Còn nữa)

Để mở tài khoản chứng khoán, thực hiện theo hướng dẫn MỞ TÀI KHOẢN hoặc truy cập trực tiếp đường dẫn https://openaccount.vps.com.vn/open-account?MKTID=BHMO

Nếu bạn là một nhà đầu tư mới cần tìm hiểu về cách đầu tư chứng khoán, kiến thức chứng khoán, truy cập trang LIÊN HỆ hoặc theo dõi Fanpage TỰ CHƠI CHỨNG KHOÁN

TỰ CHƠI CHỨNG KHOÁN - thành viên của ngôi nhà VPS, luôn đồng hành với các bạn trên con đường trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp

Hòa Nguyễn